Giấy dó và những điều cần biết

Giấy dó và những điều cần biết

Giấy dó và những điều cần biết

Giấy dó và những điều cần biết

Giấy dó và những điều cần biết
Giấy dó và những điều cần biết
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow

Giấy dó và những điều cần biết

Giấy dó và những điều cần biết

Cụ đồ - giấy dó và mực tàu

Sản xuất giấy dó

Nghiên cứu tại các cơ sở sản xuất giấy dó ở Việt Nam cho thấy, về cơ bản, giấy dó sản xuất thủ công, không có tác động hoá chất tạo axít trong giấy. Vỏ cây dó được nấu và ngâm trong nước vôi với thời gian ba tháng, bóc bỏ lần vỏ đen đi, giã bằng cối và chày rồi dùng chất nhầy từ cây mò tạo hỗn hợp kết dính. Khi xeo giấy, người thợ dùng liềm xeo (khuôn có mành trúc hay dây đồng ken dày) chao đi chao lại trong bể bột dó. Lớp bột dó trên liềm chính là tờ giấy dó sau khi kết thúc công đoạn ép, phơi, nén hay cán phẳng. Xơ dó kết lại với nhau, như cái mạng nhện nhiều lớp, tạo nên tờ giấy dó. Sự kết mạng như vậy đã làm cho tờ giấy xốp. Vì xốp nên giấy rất nhẹ. Sau cùng là phơi hoặc sấy.

Các công cụ sản xuất hầu như bằng tre, gỗ và dùng ánh sáng tự nhiên để làm khô giấy. Giấy dó được sản xuất theo quy trình này không có độ axít dẫn đến tuổi thọ cao. Một số tài liệu cho rằng giấy dó có độ tuổi thọ tới 500 năm [1].

Tiếng nện chày giã giấy dó đã đi vào ca dao:

Mịt mù khói tỏa ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ

Đặc tính lý hóa của giấy dó

Giấy dó có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhoè khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc dòn gẫy, ẩm nát. Giấy dó xốp, nhẹ do nguyên liệu, cách chế biến, xử lý nguyên liệu và công nghệ sản xuất giấy dó quy định. Giấy dó có cấu trúc dạng sợi, các xơ sợi li ti cố kết với nhau tựa mạng nhện, nhiều lớp, không theo thứ tự sợi ngang, dọc như tấm lụa dệt, mà theo dạng chuyển động brown, đa chiều. Giấy dó có trọng lượng riêng bằng khoảng một nửa các loại giấy sản xuất công nghiệp.

Giấy dó Yên Thái đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới và được bạn hàng ưa chuộng. Các hoạ sĩ người Pháp đã sử dụng giấy dó Yên Thái (khổ lớn) để vẽ tranh bằng mực tầu theo phương pháp tranh cổ điển phương Đông. Một vài bảo tàng ở châu Âu cũng đã dùng giấy dó để lót bồi phía sau tranh vẽ. Với đặc tính chống ẩm rất cao, giấy dó giúp cho các tác phẩm nghệ thuật không bị ẩm mốc.

Độ bền:

Tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, trong số những tài liệu giấy, thì tài liệu giấy dó có tuổi thọ cao nhất. Các tài liệu giấy dó là những loại tài liệu được sản sinh lâu đời nhất, từ khi các phương tiện bảo quản chưa được phát triển.

Bắt màu, hút ẩm và thoát ẩm: Vì xốp nên giấy dó rất dễ bắt màu khi viết, in

Cách nhiệt, cách âm, thẩm âm, cháy kiệt: Cũng vì xốp nên giấy dó cách nhiệt, cách âm tốt, do có cấu trúc dạng sợi đa chiều

Cây dó giấy

Nguyên liệu chủ yếu của giấy dó vùng Kinh Bắc và Hà Nội là cây dó giấy. Một số nơi khác còn dùng cây dướng, cây dó liệt.

Giấy dó và những điều cần biết

Hình ảnh cây giấy dó

Cây dó giấy: tên khoa học là Rhamnoneuron balansae, thuộc họ trầm Thymelaeaceae, bộ trầm Thymelaeales, là một loại cây nhỏ trong nhóm cây gỗ lớn, cao 8-12m, đường kính thân ≤ 20cm, cành non phủ đầy lông. Lá mọc cách, phiến hình trứng thuôn, dài 10-20cm, rộng 3-3,5cm, tròn, thót nhọn ở đầu, mỏng, nhẵn ở mặt trên có lông ngắn và nằm ở mặt dưới, có 20 - 25 đôi gân, bậc hai gần như song song; cuống lá dài 3 - 4mm, có lông và có cánh.

Cụm hoa ở đầu cành là chùy thưa dài hơn lá, có lông. Cụm hoa đơn vị là tán, gồm 4 hoa không cuống, khi non được bao bởi hai lá bắc tổng bao dài 6 - 7mm, có lông len. Hoa màu trắng, lưỡng tính, thơm. ống đài dài 1cm, hơi loe ở giữa, phủ đầy lông ở ngoài, nhẵn, ở trong mang 4 lá đài trên đầu. Lá đài hình trứng, to nhỏ không bằng nhau, dài 2mm, có lông ở mặt ngoài. Nhị 8, xếp thành hai vòng không dài bằng nhau.

Đĩa tuyến mật cao 1,5 - 2mm, hình chén mỏng, mép lượn sóng. Bầu hơi có cuống, phủ đầy lông; vòi ngắn; núm to, gần hình bán cầu. Quả khô không tự nở, hình trứng, dài 7mm; vỏ quả ngoài mỏng, phủ đầy lông màu vàng nhạt. Hạt hình thoi, dài 6mm, rộng 1,7mm.

Hiện giống cây dó giấy này đang bị tuyệt chủng, được liệt vào đối tượng bảo vệ của Sách đỏ Việt Nam - trang 235

Các loại giấy dó

Giấy dó sản xuất tại làng An Cốc (Hà Tây) có 7 loại:

  1. Giấy phương
  2. Giấy trúc
  3. Giấy khay
  4. Giấy để tạo giấy sắc
  5. Giấy vua phê
  6. Giấy hành ri
  7. Giấy dó bìa

Tại Hà Nội:

  1. Giấy sắc (Nghĩa Đô)
  2. Giấy moi, giấy phèn làm từ nguyên liệu thô hơn, có mặt giấy khô ráp, sử dụng để gói hàng (Triều Khúc, Yên Thái)
  3. Giấy xề: làm từ các đầu mẩu vỏ dó bị loại bỏ (làng Kẻ Cót hay làng Cót)

Nghề làm giấy sắc tại Nghĩa Đô: họ Lại làng Nghĩa Đô khởi nghiệp làm giấy sắc từ thời Lê-Trịnh, rồi phát triển mãi đến hiện nay trong suốt mấy trăm năm. Có lẽ trước đó, ở nước ta đã làm được loại giấy đặc biệt này rồi, nhưng sản xuất ở đâu thì chưa nghiên cứu được. Các cụ ở đây cho biết, làm giấy dó đã công phu, làm giấy sắc còn công phu hơn nhiều. Giấy sắc dùng để phong sắc cho hàng nhất phẩm (phẩm trật hàng đầu) phải có 5 thợ cùng làm một lúc mới xeo nổi 1 tờ. Giấy để phong sắc cho hàng phẩm trật thấp hơn (từ nhị phẩm xuống cửu phẩm), khổ giấy hẹp, cũng phải 3 người thợ làm 1 tờ. Khâu tinh xảo đòi hỏi tay nghề rất cao là phần vẽ rồng trên giấy sắc - đây là công đoạn cuối cùng, khó nhất, cầu kỳ nhất và cũng là nghệ thuật nhất. Những người thợ giỏi như các cụ Tám Hoàn, cụ Sáu Tơ, cụ Xã Lịch thì vẽ "chạy". Những thợ kém hơn thì chỉ vẽ "đồ", tức là cứ theo nét "chạy" mà tô kim nhũ, vàng, bạc.

Ngoài những công đoạn cơ bản như sản xuất các loại giấy dó khác - giấy sắc có thêm một số công đoạn kỳ công, phức tạp mà các loại giấy dó thông thường không phải làm như bôi keo, nhuộm và làm "nghè". Bôi keo là làm cho giấy thêm dai, không hút ẩm và chống mối mọt. Nhuộm là để co giấy có màu sắc đặc trưng. Thường người ta nhuộm giấy bằng bột hoa hòe giã nhỏ. Khi nhuộm phải nhuộm cả hai mặt thì giấy mới có màu vàng bóng và dày dặn. "Nghè" là công đoạn làm cho giấy mỏng hơn và dai hơn. Nghè tức là dùng vổ chày giã, đập lên một chồng, một xếp giấy khoảng 4-5 tờ trên một đe đá. Khi nghè nghe tiếng chày giã đanh, giấy đã mỏng và bóng là được, thợ Nghè phải có sức khỏe và khéo léo. Những người có kinh nghiệm mới được đảm nhiệm công việc này.

Nghệ nhân làm giấy sắc luôn giữ bí quyết kỹ thuật "đánh vàng, đánh bạc". Dụng cụ đánh vàng bạc là chầy và những cái bát cực lớn. Để giữ bí mật nghề nghiệp, các cụ thường làm công việc này ở nơi kín đáo nhất trong nhà, nhằm tránh người ngoài học lỏm. Chẳng hạn nhà cụ Tám Hoàn có bàn thờ lớn, gần bàn thờ bố trí một diện tích khá rộng, đây là nơi cụ chuyên làm công việc đánh vàng, đánh bạc hết sức bí mật này. Đáng tiếc là cụ Tám Hoàn đã mất từ lâu mà dường như sinh thời cũng chưa truyền lại nghề cho ai, kể cả con cháu của cụ - ở đó hiện còn một tảng đá xanh, mặt rất phẳng, rộng khoảng 60x80cm, xưa dùng để "nghè" giấy. Đấy là kỷ vật duy nhất của cụ Tám còn để lại, các dụng cụ đánh vàng, bạc của nghệ nhân này đã mất cả.

Cũng theo các cụ trong dòng họ Lại kể: Tại Nghĩa Đô trước đây không chỉ có một người, một nhà làm. Dưới triều Nguyễn - vào thời vua Khải Định - có năm Nhà nước đặt thợ Nghĩa Đô làm hàng vạn tờ giấy sắc. Năm 1925, vua Khải Định làm lễ "Tứ tuần đại khánh" dùng giấy sắc phong tước cho bách quan, bách thần nên năm đó làng Nghĩa Đô làm nhiều giấy sắc nhất. Giá giấy sắc rất cao, mỗi tờ giấy sắc thời đó là một đồng bạc Đông Dương (tương đương một lượng vàng), bởi giấy sắc làm rất khó nguyên vật liệu để trang trí đều là vàng, bạc nguyên chất. Họ Lại ở đây có nhiều gia đình làm giấy sắc như: nhà cụ Xã Vi, cụ Phó Nhiệm, cụ Trương Lại, cụ Trương Xứ, cụ Xã Lịch, cụ Phó Nhiên, cụ Bếp Kiệm.

Nói về giấy sắc Nghĩa Đô, dân gian Hà Nội còn lưu truyền những câu ca đầy tự hào:

Họ Lại làm giấy sắc vua Làng
Láng kéo cờ mở hội hùng ghê!
Tiếng đồn con gái Nghĩa Đô
Quanh năm làm giấy cho vua được nhờ.

Bây giờ tới Nghĩa Đô, dấu tích nghề giấy sắc còn lại chẳng là bao. Những thợ giỏi hầu hết qua đời. Chi họ Lại đông người hơn ngày xưa gấp nhiều lần mà chỉ còn lại hai người biết làm giấy sắc: Cụ Lại Thị Phương thợ xeo và cụ Lại Phú Bàn thợ vẽ, các cụ tuổi đều đã cao (trên dưới 80 tuổi).

Ứng dụng

 In sách: ngày xưa người Việt in bằng công nghệ in giấy bản trên ván gỗ. Ngày nay, nhà thơ Nguyễn Duy sử dụng máy in phun để in trên giấy dó 
* Ghi chép: thích hợp với sử dụng bút lông
* Vẽ tranh dân gian: đặc sắc có tranh dân gian Đông Hồ
* Đồ chơi Trung Thu
* Vàng mã
* Làm quạt
* Bao bì
* Giấy chống ẩm
* Sản xuất tấm cách âm, cách nhiệt, làm màng loa máy thu thanh

Bài viết liên quan

Back-top
X
Hotline - Cisbaotin